lephuc01
16-05-2017, 11:12 AM
Công ty chuyên sx cung cấp sỉ lẻ nhôm thanh các loại U, V, nẹp, hộp phi tròn...nhận gia công theo khuân mẫu
lh 0937 655 551 - 0983 994 326
gia công nhôm thanh theo khuân mẫu không hạn chế số lượng (http://www.nhomqth.com/)
================================================== ==================================================
Nhôm ( tiếng Latinh : alumen , alum ) là tên một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn nguyên tố có ký hiệu Al và số nguyên tử bằng 13. Trò múa làm hề tử khối bằng 27 đvC. Khối lượng riêng là 2 , 7 g/cm 3 . Nhiệt độ nóng chảy là 660 o C. Nhôm là nguyên tố phổ thông thứ 3 ( sau ôxy và silic ) , và là kim loại phổ biến nhất trong vỏ quả đất. Nhôm chiếm khoảng 8% khối lớp rắn của trái đất. Kim khí nhôm hiếm phản ứng hóa học mạnh với các mẫu quặng và có mặt hạn chế trong các môi trường khử cực mạnh. Tuy vậy , nó vẫn được tìm thấy ở dạng hợp chất trong hơn 270 loại khoáng vật khác nhau. [4] Quặng chính chứa nhôm là bô xít .
Nhôm có điểm đáng chú ý của một kim loại có tỷ trọng thấp và có khả năng chống ăn mòn cảnh tượng thụ động. Các thành phần kiến trúc được làm từ nhôm và hợp kim của nó là rất quan yếu cho ngành Công lao thủy lợi vũ trụ và rất quan yếu trong các chuye khác của liên lạc chuyên chở và vật liệu kiến trúc. Các hợp chất bổ ích nhất của nhôm là các ôxít và sunfat.
mặc dầu nó có mặt phổ quát trong môi trường nhưng các muối nhôm không được bất kỳ dạng sống nào sử dụng. Với sự phổ biến của nó , nhôm được dung nạp tốt bởi cây cỏ và động vật. [5]
Từ "nhôm" trong tiếng Việt có nguồn gốc từ aluminium trong tiếng Pháp .
thuộc tính [ sửa sửa mã nguồn ] Nhôm là một kim khí mềm , nhẹ với màu xám bạc ánh kim mờ , vì có một lớp mỏng ôxi hóa tạo thành rất nhanh khi nó để trần ngoài không khí . Tỷ trọng riêng của nhôm chỉ khoảng một phần ba sắt hay đồng ; nó rất mềm ( chỉ sau vàng ) , dễ uốn ( đứng thứ sáu ) và dễ dàng gia công trên máy móc hay đúc; nó có khả năng chống ăn mòn và vững bền do lớp ôxít canh gác. Nó cũng không nhiễm từ và không cháy khi để ở ngoài khí trời ở điều kiện bình thường .
Sức bền của nhôm thuần khiết là 7–11 MPa , trong khi hợp kim nhôm có độ bền từ 200 MPa đến 600 MPa. [6] Các nguyên tử nhôm sắp đặt thành một kiến trúc lập phương tâm mặt ( fcc ). Nhôm có năng lượng xếp lỗi vào khoảng 200 mJ/m 2 . [7]
Nhôm biến hóa với nước tạo ra hydro và năng lượng:
2 Al + 6 H 2 O → 2 Al( OH ) 3 + 3 H 2
thuộc tính này có khả năng dùng để sản xuất hydro , tuy nhiên phản ứng này mau chóng dừng lại vì tạo lớp kết tủa keo lắng xuống , ngăn cản biến hóa xảy ra. [8]
Khi ngâm trong dung dịch kiềm đặc , lớp màng này sẽ bị phá hủy theo biến hóa
Al( OH ) 3 +NaOH → NaAlO 2 + 2H 2 O
tiếp chuyện Al lại hiệu quả với nước như đặc tính trên. Quá trình này lại diễn ra đến khi Al không bị hòa tan hết.
Lịch sử [ sửa sửa mã nguồn ] Tham chiếu hàng đầu tới nhôm ( mặc dầu chẳng thể chứng minh ) là trong Naturalis Historia của Gaius Plinius Secundus ( tức Pliny anh ):
Có một ngày một người thợ vàng ở Roma được phép cho hoàng đế Tiberius xem một chiếc đĩa ăn làm từ một kim khí mới. Chiếc đĩa rất nhẹ và có màu sáng như bạc . Địa ngục thợ vàng nói với hoàng đế rằng ông đã sản xuất kim khí từ đất sét thô. Ông cũng cam đoan với hoàng đế rằng chỉ có ông ta và chúa Trời biết cách sản xuất kim loại này từ đất sét. Hoàng đế rất ưa , và như một chuyên gia về tài chính ông đã quan hoài tới nó. Tuy nhiên ông nhận ngay ra là mọi Chia của cải vàng , bạc của ông sẽ mất giá trị giả dụ người dân bắt đầu sản xuất kim loại màu sáng này từ đất sét. Bởi thế , thay vì cảm ơn người thợ vàng , ông đã ra lệnh chặt đầu ông ta . [9] [10]
Những người Hy Lạp và La Mã cổ đại đã sử dụng các loại muối của kim loại này như là thuốc cẩn màu ( nhuộm ) và như chất làm se vết thương , và phèn chua vẫn được sử dụng như chất làm se. Năm 1761 Guyton de Morveau đề xuất cách gọi gốc của phèn chua là alumine . Năm 1808 , Humphry Davy chính xác được gốc kim loại của phèn chua ( alum ) , mà theo đó ông Mệnh danh cho nhôm là aluminium .
tên tuổi của Friedrich Wöhler nhìn chung được gắn liền với việc phân lập nhôm vào năm 1827 . Tuy nhiên , kim khí này đã được làm ra lần đầu tiên trong dạng không nguyên chất hai năm trước bởi nhà vật lý và hóa học Đan Mạch Hans Christian Ørsted .
Nhôm được chọn làm chóp cho đài kỷ niệm Washington vào thời kì khi một aoxơ ( 28 , 35 g ) quý báu bằng hai lần ngày lương của người lao động. [11]
Charles Martin Hall nhận được bằng sáng chế ( số 400655 ) năm 1886 , về quy trình điện phân để sản xuất nhôm. Henri Saint-Claire Deville ( Pháp ) đã hoàn thiện thủ pháp của Wöhler ( năm 1846 ) và biểu lộ nó trong cuốn sách năm 1859 với hai cải tiến trong quy trình là thay thế kali thành natri và hai thay vì một ( chlorure )??. Phát minh của quy trình Hall-Héroult năm 1886 đã làm cho việc sản xuất nhôm từ khoáng vật trở thành không đắt tiền và bây giờ nó được sử dụng thông đạt các ngả trên thế giới.
Nước Đức trở nên nhà sản xuất nhôm lớn nhất thế giới sau khi Adolf Hitler lên nắm quyền. Tuy nhiên , năm 1942 , những nhà máy thủy điện mới như Grand Coulee Dam đã cho phép Mỹ những thứ mà nước Đức quốc xã chẳng thể được tràn đầy hy vọng cạnh tranh: khả năng sản xuất đủ nhôm để có xác xuất làm ra 60.000 máy bay chiến đấu trong bốn năm. [12] .
áp dụng [ sửa sửa mã nguồn ] Tính theo cả số lượng lẫn giá trị , việc sử dụng nhôm vượt tất thảy các kim khí khác , trừ sắt [13] , và nó đóng vai trò quan yếu trong nền kinh tế thế giới. Nhôm nguyên chất có sức chịu kéo thấp , nhưng tạo ra các hợp kim với nhiều nguyên tố như đồng , kẽm , magiê , mangan và silic [14] . Khi được gia công cơ-nhiệt , các hợp kim nhôm này có các tính chất cơ học tăng lên đáng kể.
Các hợp kim nhôm làm nên một thành phần quan trọng trong các phi cơ và tên lửa do tỷ lệ sức bền cao trên cùng khối lượng.
Khi nhôm được bay hơi trong chân không , nó tạo ra lớp bao phủ phản xạ cả ánh sáng và bức xạ nhiệt . Các lớp bao phủ này gây nên một lớp mỏng của ôxít nhôm gác canh , nó không bị hỏng hóc như các lớp bạc bao phủ vẫn hay bị. Trên thực tiễn , Hầu như toàn bộ các loại gương đương đại được sản xuất sử dụng lớp v bằng nhôm trên mặt sau của thủy tinh . Các gương của kính thiên văn cũng được phủ một lớp mỏng nhôm , nhưng là ở mặt trước để tránh các phản xạ bên trong mặc dầu điều này làm cho bề mặt nhạy cảm hơn với các tổn thương.
Các loại vỏ phủ nhôm thỉnh thoảng được dùng thay vỏ phủ vàng để phủ vệ tinh nhân tạo hay khinh khí cầu để tăng nhiệt độ cho chúng , nhờ vào phản ứng tiếp thụ bức xạ điện từ của mặt trời tốt , mà bức xạ hồng ngoại vào ban đêm thấp.
Hợp kim nhôm , nhẹ và bền , được dùng để chế tạo các chi tiết của công cụ chuyên chở ( ôtô , tàu bay , xe tải , toa xe tàu hỏa , tàu biển , v.v. )
Đóng gói ( can , giấy gói , v.v )
xử lý nước
Xây dựng ( cửa sổ , cửa , ván , v.v; tuy nhiên nó đã đánh mất vai trò chính dùng làm dây dẫn phần sau chót của các mạng điện , trực tiếp đến người sử dụng. [15] )
Các hàng tiêu dùng có độ bền cao ( trang thiết bị , đồ nấu bếp , v.v )
Các đường dây tải điện ( mặc dù độ dẫn điện của nó chỉ bằng 60% của đồng , nó nhẹ hơn nếu tính theo khối lượng và rẻ tiền hơn [16]
chế tác máy móc.
mặc dầu tự bản thân nó là không nhiễm từ , nhôm được sử dụng trong thép MKM và các nam châm Alnico .
Nhôm siêu tinh khiết ( SPA ) chứa 99 , 980%-99 , 999% nhôm được sử dụng trong công nghiệp điện tử và làm ra đĩa CD .
Nhôm dạng bột thường nhật được sử dụng để tạo màu bạc trong sơn. Các bông nhôm có thể cho thêm vào trong sơn lót , chính yếu là trong xử lí gỗ — khi khô đi , các bông nhôm sẽ tạo ra một lớp kháng nước rất tốt.
Nhôm dương cực hóa là ổn định hơn đối với sự ôxi hóa , và nó được sử dụng trong các khu vực khác nhau của xây dựng.
phần lớn các bộ tản nhiệt cho CPU của các máy tính đương đại được sản xuất từ nhôm vì nó dễ dàng trong làm ra và độ dẫn nhiệt cao.
Ôxít nhôm , alumina , được tìm thấy trong thiên nhiên dưới dạng corunđum , emery , ruby và saphia và được sử dụng trong sản xuất thủy tinh. Ruby và saphia tổng hợp được sử dụng trong các ống tia laser để làm ra ánh sáng có khả năng giao thoa .
Sự ôxi hóa nhôm tỏa ra nhiều nhiệt , nó sử dụng để làm vật liệu rắn cho hoả tiễn , nhiệt nhôm và các thành phần của pháo bông .
phản ứng nhiệt nhôm dùng để phối chế các kim loại có nhiệt độ nóng chảy cao ( như crôm Cr Vonfarm W... )
Sự phổ quát , phối chế [ sửa sửa mã nguồn ] Đồng vị bền của nhôm được tạo ra khi hydro hợp hạch với magiê hoặc trong các sao lớn hoặc trong các vụ nổ siêu tân tinh . [17]
mặc dù nhôm là nguyên tố phổ biến trong vỏ trái đất ( 8 , 3% theo khối lượng ) [18] , nó lại hiếm trong dạng tự do và đã từng được cho là kim khí quý quý báu hơn vàng ( Người ta nói rằng Napoleon III của Pháp có các bộ đồ ăn bằng nhôm xơ cua cho những người khách quý nhất của ông. Những người khách khác chỉ có bộ đồ ăn bằng vàng ). Vì thế nhôm là kim khí tự do tương đối mới trong Công lao và được làm ra với số lượng công nghiệp chỉ khoảng trên 100 năm.
Nhôm khi mới được phát hiện là cực kỳ khó Chia ra khỏi các loại đá có chứa nó. Vì tất nhôm của trái đất tồn tại dưới dạng các hợp chất nên nó là kim loại khó nhận được nhất. Lý do là nhôm bị ôxi hóa rất nhanh và ôxít nhôm là một hợp chất cực kỳ vững bền , không giống như gỉ sắt , nó không bị bong ra.
Sự tái chế nhôm từ các phế thải đã trở thành một trong những thành phần quan yếu của công nghiệp luyện nhôm . Việc tái chế giản đơn là nấu chảy kim loại , nó rẻ hơn dồi dào so với sản xuất từ quặng. Việc tinh chế nhôm tiêu hao nhiều điện năng; việc tái chế chỉ tiêu hao khoảng 5% năng lượng để làm ra ra nó trên cùng một khối lượng sản phẩm. Mặc dù cho đến đầu thập niên 1900 , việc tái chế nhôm không còn là một lĩnh vực mới. Tuy nhiên , nó là khu vực hoạt động trầm lắng cho đến tận những năm cuối thập niên 1960 khi sự Phát nổ của việc sử dụng nhôm để làm vỏ của các loại đồ uống , kể từ đó việc tái chế nhôm được đưa vào trong tầm để ý của cộng đồng. Các nguồn tái chế nhôm bao gồm ô tô cũ , cửa và cửa sổ nhôm cũ , các thiết bị Nhà ở cũ , contenơ và các sản phẩm khác.
Nhôm là một kim loại hoạt động và rất khó phân lập nó ra từ quặng , ôxít nhôm ( Al 2 O 3 ). Việc khử trực tiếp , nếu với cacbon , là không kinh tế vì ôxít nhôm có điểm nóng chảy cao ( khoảng 2.000 °C ). Bởi thế , nó được tách ra bằng cách điện phân – ôxít nhôm được hòa tan trong cryôlit nóng chảy và sau đó bị khử bởi dòng điện thành nhôm kim loại. Theo công nghệ này , nhiệt độ nóng chảy của hỗn hợp chỉ còn khoảng 950-980 °C. Cryôlit nguyên thủy được tìm thấy như một khoáng vật ở Greenland , nhưng sau đó được thay thế bằng cryôlit tổng hợp. Cryôlit là hỗn tạp của các florua nhôm , natri và canxi ( Na 3 AlF 6 ). Ôxít nhôm trong dạng bột màu trắng thu được từ quặng bôxít tinh chế , quặng này có vẻ đan vì chứa khoảng 30-40% ôxít sắt. Nó được tinh chế theo công nghệ Bayer . Trước khi có công nghệ này , công nghệ được sử dụng là công nghệ Deville .
Công nghệ điện phân thay thế cho công nghệ Wöhler , là công nghệ khử clorua nhôm khan với kali .
Các điện cực trong điện phân ôxít nhôm làm từ cacbon . Khi quặng bị nóng chảy , các ion của nó chuyển động tự do. Đặc tính tại catốt mang điện âm là:
Al 3+ + 3e - → Al
Ở đây các ion nhôm bị biến đổi ( nhận thêm điện tử ). Nhôm kim khí sau đó chìm xuống và được đưa ra khỏi lò điện phân.
Tại cực dương ( anode ) ôxy dạng khí được tạo thành:
2O 2- → O 2 + 4e -
Cực dương cacbon bị ôxi hóa bởi ôxy . Cực dương bị hao mòn dần và phải được thay thế thường xuyên , do nó bị tiêu hao do phản ứng:
O 2 + C → CO 2
trái lại với anốt , các catốt Hầu như không bị mất mát trong quá trình điện phân do không có ôxy ở gần nó. Catốt cacbon được bảo vệ bởi nhôm lỏng trong lò. Các catốt bị ăn mòn cốt yếu là do các đặc tính điện hóa. Sau 5-10 năm , nước phụ thuộc vào dòng điện sử dụng trong quá trình điện phân , các lò điện phân cần phải sửa sang tất do các catốt đã bị ăn mòn hoàn toàn.
Điện phân nhôm bằng công nghệ Hall-Héroult hao hụt nhiều điện lực , nhưng các công nghệ khác xoành xoạch có khuyết điểm về mặt kinh tế hay môi trường hơn công nghệ này. Chương trình mất mát năng lượng phổ quát là khoảng 14 , 5-15 , 5 kWh/kg nhôm được làm ra. Các lò đương đại có mức tiêu thụ điện lực khoảng 12 , 8 kWh/kg. Dòng điện để thực hiện công việc điện phân này đối với các công nghệ cũ là 100.000-200.000 A . Các lò bây giờ làm việc với cường độ dòng điện khoảng 350.000 A. Các lò thí nghiệm làm việc với dòng điện khoảng 500.000 A.
Năng lượng điện chiếm khoảng 20-40% trong giá thành của làm ra nhôm , phụ thuộc vào nơi đặt lò nhôm. Các lò luyện nhôm có khuynh hướng được đặt ở những khu vực mà nguồn cung cấp điện dồi dào với giá điện rẻ , như Nam Phi , đảo miền nam New Zealand , Úc , Trung Quốc , Trung Đông , Nga và Québec ở Canada .
Trung Quốc hiện là nhà sản xuất nhôm lớn nhất thế giới ( năm 2004 ).
Đồng vị [ sửa sửa mã nguồn ] Nhôm có chín đồng vị , số Z của chúng từ 23 đến 30. Chỉ có Al-27 ( đồng vị yên ổn ) và Al-26 ( đồng vị phóng xạ , t 1/2 = 7 , 2 × 10 5 năm ) tìm thấy trong thiên nhiên , tuy nhiên Al-27 có sự phổ biến trong tự nhiên là 100%. Al-26 được sản xuất từ agon trong khí quyển do đụng chạm sinh ra bởi các tia vũ trụ proton . Các đồng vị của nhôm có ứng dụng thực tế trong việc tính tuổi của trầm tích dưới biển , các vết mangan , nước đóng băng , thạch anh trong đá lộ thiên , và các thiên thạch. Tỷ lệ của Al-26 trên beryli-10 được sử dụng để nghiên cứu vai trò của việc chuyển hóa , lắng đọng , lưu trữ trầm tích , thời kì cháy và sự xâm thực trong thang độ thời gian 105 đến 106 năm ( về sai số ).
Al-26 nguồn gốc vũ trụ hàng đầu được sử dụng để nghiên cứu trăng và các tinh thạch . Các thành phần nông dân của thiên thạch , sau khi thoát khỏi nguyên lai của chúng , trong lúc ngao du trong không gian bị tấn công bởi các tia vũ trụ , ra đời các nguyên tử Al-26. Sau khi rơi xuống địa cầu , tấm chắn khí quyển đã trông coi cho các phần tử này không sinh ra thêm Al-26 , và sự phân rã của nó có xác xuất sử dụng để rõ ràng tuổi trên quả đất của các tinh thạch này. Các nghiên cứu về thiên thạch cho thấy Al-26 là tự do tương đối phổ quát trong thời gian hình thành hệ hành tinh của chúng tôi. Có xác xuất là năng lượng được phóng thích bởi sự phân rã Al-26 liên đái đến sự nấu chảy lại và sự sai biệt của một số tiểu hành tinh sau khi chúng hình thành cách đây 4 , 55 tỷ năm. [19]
Cụm [ sửa sửa mã nguồn ] Trong tập san Science ngày 14 tháng 1 năm 2005 đã báo cáo rằng các cụm 13 nguyên tử nhôm ( Al 13 ) được tạo ra có thuộc tính giống như nguyên tử iốt ; và 14 nguyên tử nhôm ( Al 14 ) có thuộc tính giống như nguyên tử kim khí kiềm thổ . Các nhà Học hỏi còn liên kết 12 nguyên tử iốt với cụm Al 13 để tạo ra một lớp mới của pôlyiốtua . Sự phát kiến này được thông báo là mở ra khả năng của các đặc tính mới của bảng tuần hoàn các nguyên tố : "các nguyên tố cụm". Nhóm nghiên cứu dẫn đầu bởi Shiv N. Khanna ( Đại học Virginia Commonwealth ) và A. Welford Castleman Jr ( Đại học tiểu bang Penn ). [20]
cảnh báo [ sửa sửa mã nguồn ] Nhôm là một trong ít các nguyên tố phổ quát nhất mà không có chức năng hữu ích nào cho các cơ thể sống , nhưng có một số người bị dị ứng với nó — họ bị các chứng viêm da do tiếp kiến với các dạng khác nhau của nhôm: các vết ngứa do sử dụng các chất làm se da hay hút mồ hôi ( phấn rôm ) , các rối loạn tiêu hóa và giảm hay mất khả năng hấp thụ các chất dinh dưỡng từ thức ăn nấu trong các nồi nhôm , nôn mửa hay các triệu chứng khác của ngộ độc nhôm do ăn ( uống ) các sản phẩm như Kaopectate® ( thuốc chống đi rửa ) , Amphojel® và Maalox® ( thuốc chống chua ). Đối với những người khác , nhôm không bị coi là chất độc như các kim loại nặng , nhưng có ám hiệu của ngộ độc nếu nó được tiếp thu nhiều , mặc dầu việc sử dụng các đồ Bếp bằng nhôm ( phổ quát do khả năng chống ăn mòn và dẫn nhiệt tốt ) nói chung chưa cho thấy dẫn đến tình trạng ngộ độc nhôm. Việc tiêu thụ qua nhiều các thuốc chống chua chứa các hợp chất nhôm và việc sử dụng lan tràn thặng dư các chất hút mồ hôi chứa nhôm có lẽ là nguồn độc nhất vô nhị sinh ra sự bị trúng độc nhôm. Người ta ý là nhôm liên đới đến bệnh Alzheimer , mặc dù các Học hỏi gần đây đã bị bác bỏ.
Cần cẩn trọng để không cho nhôm tiếp kiến với một số chất hóa học nào đó có khả năng bào mòn nó rất nhanh. Giá dụ , chỉ một lượng nhỏ thuốc độc tiếp xúc với bề mặt của miếng nhôm có xác xuất phá hủy lớp ôxít nhôm canh giữ bình thường có trên bề mặt các tấm nhôm. Trong vài giờ , thậm chí cả một cái xà có kiến trúc nặng nề có khả năng bị làm yếu đi một cách rõ rệt. Vì lý do này , các loại nhiệt biểu thạch tín không được phép trong nhiều sân bay và hãng cơ giới , vì nhôm là thành phần cấu trúc căn bản của các máy bay.
kim khí Nhôm
Nhôm là tên một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn nguyên tố có ký hiệu Al và số nguyên tử bằng 13. Trò múa làm hề tử khối bằng 27 đvC. Khối lượng riêng là 2 , 7 g/cm3. Nhiệt độ nóng chảy là 660oC. Từ "nhôm" trong tiếng Việt có nguồn gốc từ aluminium trong tiếng Pháp.
thuộc tính
Nhôm là một kim khí mềm , nhẹ với màu xám bạc ánh kim mờ , vì có một lớp mỏng ôxi hóa tạo thành rất nhanh khi nó để trần ngoài không khí . Tỷ trọng riêng của nhôm chỉ khoảng một phần ba sắt hay đồng ; nó rất mềm ( chỉ sau vàng ) , dễ uốn ( đứng thứ sáu ) và dễ dàng gia công trên máy móc hay đúc; nó có khả năng chống ăn mòn và bền vững do lớp ôxít canh gác. Nó cũng không nhiễm từ và không cháy khi để ở ngoài khí trời ở hoàn cảnh bình thường .
Lịch sử
Tham chiếu đầu tiên tới nhôm ( mặc dầu không thể chứng minh ) là trong Naturalis Historia của Gaius Plinius Secundus ( tức Pliny anh ):
Có một ngày càng người thợ vàng ở Roma được phép cho hoàng đế Tiberius xem một chiếc đĩa ăn làm từ một kim loại mới. Chiếc đĩa rất nhẹ và có màu sáng như bạc . Người thợ vàng nói với hoàng đế rằng ông đã sản xuất kim khí từ đất thó thô. Ông cũng xác nhận với hoàng đế rằng chỉ có ông ta và chúa Trời biết cách làm ra kim khí này từ đất sét. Hoàng đế rất ham thích , và như một chuyên gia về tài chính ông đã quan tâm tới nó. Tuy nhiên ông nhận ngay ra là mọi Chia của cải vàng , bạc của ông sẽ mất giá trị phải như người dân bắt đầu sản xuất kim khí màu sáng này từ đất thó. Vì thế , thay vì cảm ơn người thợ vàng , ông đã ra lệnh chặt đầu ông ta .
Những người Hy Lạp và La Mã cổ đại đã sử dụng các loại muối của kim khí này như là thuốc cẩn màu ( nhuộm ) và như chất làm se vết thương , và phèn chua vẫn được sử dụng như chất làm se. Năm 1761 Guyton de Morveau dề xuất cách gọi gốc của Phèn trắng là alumine . Năm 1808 , Humphry Davy chính xác được gốc kim loại của Phèn trắng ( alum ) , mà theo đó ông đặt tên cho nhôm là aluminium .
tên tuổi của Friedrich Wöhler nói chung được gắn liền với việc phân lập nhôm vào năm 1827 . Tuy nhiên , kim loại này đã được làm ra lần đi hàng đầu trong dạng không nguyên chất hai năm trước bởi nhà vật lý và hóa học Đan Mạch Hans Christian Ørsted .
Nhôm được chọn làm chóp cho kỷ niệm Washington vào thời kì khi một aoxơ ( 28 , 35 g ) có giá trị bằng hai lần ngày lương của người lao động.
Charles Martin Hall nhận được bằng sáng chế năm 1886 , về quy trình điện phân để sản xuất nhôm. Henri Saint-Claire Deville ( Pháp ) đã hoàn thiện thủ pháp của Wöhler ( năm 1846 ) và biểu hiện nó trong cuốn sách năm 1859 với hai sửa đổi cho tiến bộ hơn trong quy trình là thay thế kali thành natri và hai thay vì một ( chlorure ). Phát minh của quy trình Hall-Héroult năm 1886 đã làm cho việc làm ra nhôm từ khoáng vật trở nên không đắt tiền và ngày nay nó được sử dụng Đường bằng phẳng trên thế giới.
Nước Đức trở thành nhà làm ra nhôm lớn nhất thế giới sau khi Adolf Hitler lên nắm quyền. Tuy nhiên , năm 1942 , những nhà máy thủy điện mới như Grand Coulee Dam đã cho phép Mỹ những thứ mà nước Đức quốc xã không thể hy vọng cạnh tranh: khả năng sản xuất đủ nhôm để có khả năng sản xuất 60.000 máy bay khu trục trong bốn năm.
vận dụng
Tính theo cả số lượng lẫn giá trị , việc sử dụng nhôm vượt tất thảy các kim loại khác , trừ sắt , và nó đóng vai trò quan yếu trong nền kinh tế thế giới. Nhôm nguyên chất có sức chịu kéo thấp , nhưng tạo ra các hợp kim với nhiều nguyên tố như đồng , kẽm , magiê , mangan và silic . Khi được gia công cơ-nhiệt , các hợp kim nhôm này có các thuộc tính cơ học tăng lên đáng kể.
§ Các hợp kim nhôm tạo thành một thành phần quan trọng trong các máy bay và tên lửa do tỷ lệ sức bền cao trên cùng khối lượng.
§ Khi nhôm được bay hơi trong chân không , nó tạo ra lớp bao phủ v cả ánh sáng và bức xạ nhiệt . Các lớp bao phủ này làm nên một lớp mỏng của ôxít nhôm bảo vệ , nó không bị hỏng hóc như các lớp bạc bao trùm vẫn hay bị. Trên thực tế , gần như toàn bộ các loại gương đương đại được sản xuất sử dụng lớp như: âm ba bằng nhôm trên mặt sau của sao thủy . Các gương của kính thiên văn cũng được phủ một lớp mỏng nhôm , nhưng là ở mặt trước để tránh các cộng chấn bên trong mặc dù điều này làm cho bề mặt nhạy cảm hơn với các tổn thương.
§ Các loại vỏ phủ nhôm đôi khi được dùng thay vỏ phủ vàng để phủ vệ tinh nhân tạo hay khinh khí cầu để tăng nhiệt độ cho chúng , nhờ vào biến hóa tiếp nhận bức xạ điện từ của mặt trời tốt , mà bức xạ hồng ngoại vào ban đêm thấp.
§ Hợp kim nhôm , nhẹ và bền , được dùng để chế tạo các chi tiết của phương tiện chuyên chở ( ôtô , máy bay , xe tải , toa xe tàu hỏa , tàu biển , v.v. )
§ Đóng gói ( can , giấy gói , v.v )
§ xử lí nước
§ Xây dựng ( cửa sổ , cửa , ván , v.v; tuy nhiên nó đã đánh mất vai trò chính dùng làm dây dẫn phần sau chót của các mạng điện , trực tiếp đến người sử dụng )
§ Các hàng tiêu dùng có độ bền cao ( trang thiết bị , đồ nấu ăn , v.v )
§ Các đường dây tải điện ( mặc dù độ dẫn điện của nó chỉ bằng 60% của đồng , nó nhẹ hơn nếu tính theo khối lượng và rẻ tiền hơn )
§ chế tạo máy móc.
§ mặc dù tự bản thân nó là không nhiễm từ , nhôm được sử dụng trong thép MKM và các từ thạch Alnico .
§ Nhôm siêu thuần khiết ( SPA ) chứa 99 , 980%-99 , 999% nhôm được sử dụng trong công nghiệp điện tử và làm ra đĩa CD .
§ Nhôm dạng bột bình thường được sử dụng để tạo màu bạc trong sơn. Các bông nhôm có xác xuất cho thêm vào trong sơn lót , cốt tử là trong xử lí gỗ - khi khô đi , các bông nhôm sẽ tạo ra một lớp kháng nước rất tốt.
§ Nhôm dương cực hóa là yên ổn hơn đối với sự ôxi hóa , và nó được sử dụng trong các khu vực khác nhau của xây dựng.
§ phần nhiều các bộ tản nhiệt cho CPU của các máy tính hiện đại được sản xuất từ nhôm vì nó dễ dàng trong làm ra và độ dẫn nhiệt cao.
§ Ôxít nhôm , alumina , được tìm thấy trong thiên nhiên dưới dạng corunđum , emery , ruby và saphia và được sử dụng trong làm ra thủy tinh. Ruby và saphia tổng hợp được sử dụng trong các ống tia laser để làm ra ánh sáng có thể giao thoa .
§ Sự ôxi hóa nhôm tỏa ra nhiều nhiệt , nó sử dụng để làm nguyên liệu rắn cho hoả tiễn , nhiệt nhôm và các thành phần của pháo hoa .
§ biến hóa nhiệt nhôm dùng để phối chế các kim loại có nhiệt độ nóng chảy cao ( như crôm Cr Vonfarm W ... )
Sự phổ thông , điều chế
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/1/11/Bauxite_h%C3%A9rault.JPG/200px-Bauxite_h%C3%A9rault.JPG
Quặng Bauxite chứa nhôm.
mặc dù nhôm là nguyên tố phổ biến trong vỏ trái đất ( 8 , 1% ) , nó lại hiếm trong dạng tự do và đã từng được cho là kim loại quý có giá trị hơn vàng ( Người ta nói rằng Napoleon III của Pháp có các bộ đồ ăn bằng nhôm xơ cua cho những người khách quý nhất của ông. Những người khách khác chỉ có bộ đồ ăn bằng vàng ). Vì thế nhôm là kim khí tự do tương đối mới trong Công lao và được sản xuất với số lượng Công lao chỉ khoảng trên 100 năm.
Nhôm khi mới được phát hiện là cực kỳ khó tách ra khỏi các loại đá có chứa nó. Vì hết thảy nhôm của trái đất tồn tại dưới dạng các hợp chất nên nó là kim khí khó nhận được nhất. Lý do là nhôm bị ôxi hóa rất nhanh và ôxít nhôm là một hợp chất cực kỳ bền vững , không giống như gỉ sắt , nó không bị bong ra.
Sự tái chế nhôm từ các phế thải đã trở thành một trong những thành phần nông dân quan yếu của Công lao luyện nhôm . Việc tái chế đơn giản là nấu chảy kim khí , nó rẻ hơn rất nhiều so với sản xuất từ quặng. Việc tinh chế nhôm tiêu hao nhiều điện năng; việc tái chế chỉ tiêu hao khoảng 5% năng lượng để làm ra ra nó trên cùng một khối lượng sản phẩm. Mặc dù cho đến đầu thập niên 1900 , việc tái chế nhôm không còn là một lĩnh vực mới. Tuy nhiên , nó là lĩnh vực hoạt động trầm lắng cho thâu những năm cuối thập niên 1960 khi sự bùng nổ của việc sử dụng nhôm để làm vỏ của các loại đồ uống , kể từ đó việc tái chế nhôm được đưa vào trong tầm để ý của cộng đồng. Các nguồn tái chế nhôm bao gồm ô tô cũ , cửa và cửa sổ nhôm cũ , các thiết bị Nhà ở cũ , contenơ và các sản phẩm khác.
Nhôm là một kim loại hoạt động và rất khó phân lập nó ra từ quặng , ôxít nhôm ( Al 2 O 3 ). Việc khử trực tiếp , giá dụ với cacbon , là không kinh tế vì ôxít nhôm có điểm nóng chảy cao ( khoảng 2.000 °C ). Vì thế , nó được tách ra bằng cách điện phân – ôxít nhôm được hòa tan trong cryôlit nóng chảy và sau thời gian ấy bị khử bởi dòng điện thành nhôm kim khí. Theo công nghệ này , nhiệt độ nóng chảy của hổ lốn chỉ còn khoảng 950-980 °C. Cryôlit bổn sơ được tìm thấy như một khoáng vật ở Greenland , nhưng sau đó được thay thế bằng cryôlit tổng hợp. Cryôlit là hổ lốn của các florua nhôm , natri và canxi ( Na 3 AlF 6 ). Ôxít nhôm trong dạng bột màu trắng thu được từ quặng bôxít tinh luyện , quặng này có vẻ son vì chứa khoảng 30-40% ôxít sắt. Nó được tinh chế theo công nghệ Bayer . Trước khi có công nghệ này , công nghệ được sử dụng là công nghệ Deville .
Công nghệ điện phân thay thế cho công nghệ Wöhler , là công nghệ khử clorua nhôm khan với kali .
Các điện cực trong điện phân ôxít nhôm làm từ cacbon . Khi quặng bị nóng chảy , các ion của nó chuyển động tự do. Phản ứng tại catốt mang điện âm là:
Al 3+ + 3e - → Al
Ở đây các ion nhôm bị chuyển biến ( nhận thêm điện tử ). Nhôm kim loại sau đó chìm xuống và được đưa ra khỏi lò điện phân.
Tại cực dương ( anode ) ôxy dạng khí được tạo thành:
2O 2- → O 2 + 4e -
Cực dương cacbon bị ôxi hóa bởi ôxy . Cực dương bị hao mòn dần và phải được thay thế thường xuyên , do nó bị mất mát do phản ứng:
O 2 + C → CO 2
trái lại với anốt , các catốt Hầu như không bị mất mát trong quá trình điện phân do không có ôxy ở gần nó. Catốt cacbon được trông coi bởi nhôm lỏng trong lò. Các catốt bị bào mòn cốt yếu là do các đặc tính điện hóa. Sau 5-10 năm , phụ thuộc vào dòng điện sử dụng trong quá trình điện phân , các lò điện phân cần phải sửa chữa tuốt do các catốt đã bị ăn mòn hoàn toàn.
Điện phân nhôm bằng công nghệ Hall-Héroult tiêu hao nhiều điện năng , nhưng các công nghệ khác luôn luôn có có lỗi về mặt kinh tế hay môi trường hơn công nghệ này. Các quy định tiêu hao năng lượng phổ quát là khoảng 14 , 5-15 , 5 kWh/kg nhôm được sản xuất. Các lò đương đại có mức tiêu thụ điện lực khoảng 12 , 8 kWh/kg. Dòng điện để thực hiện nghề nghiệp điện phân này đối với các công nghệ cũ là 100.000-200.000 A . Các lò hiện tại làm việc với cường độ dòng điện khoảng 350.000 A. Các lò thí nghiệm làm việc với dòng điện khoảng 500.000 A.
Năng lượng điện chiếm khoảng 20-40% trong giá thành của làm ra nhôm , nước phụ thuộc vào nơi đặt lò nhôm. Các lò luyện nhôm có khuynh hướng được đặt ở những khu vực ấn độ dương mà nguồn cung cấp điện dồi dào với giá điện rẻ , như Nam Phi , đảo miền nam New Zealand , Úc , Trung Quốc , Trung Đông , Nga và Québec ở Canada .
Trung Quốc hiện là nhà làm ra nhôm lớn nhất thế giới ( năm 2004 ).
Đồng vị
Nhôm có chín đồng vị , số Z của chúng từ 23 đến 30. Chỉ có Al-27 ( đồng vị ổn định ) và Al-26 ( đồng vị phóng xạ , t 1/2 = 7 , 2 × 10 5 năm ) tìm thấy trong tự nhiên , tuy nhiên Al-27 có sự phổ thông trong thiên nhiên là 100%. Al-26 được sản xuất từ agon trong khí quyển do đụng chạm sinh ra bởi các tia vũ trụ proton . Các đồng vị của nhôm có áp dụng thực tế trong việc tính tuổi của trầm tích dưới biển , các vết mangan , nước đóng băng , thạch anh trong đá lộ thiên , và các tinh thạch. Tỷ lệ của Al-26 trên beryli-10 được sử dụng để nghiên cứu vai trò của việc chuyển hóa , lắng đọng , lưu trữ trầm tích , thời kì cháy và sự xâm thực trong thang độ thời kì 105 đến 106 năm ( về sai số ).
Al-26 nguyên lai vũ trụ hàng đầu được sử dụng để nghiên cứu trăng và các tinh thạch . Các thành phần nông dân của tinh thạch , sau khi thoát khỏi nguyên lai của chúng , trong khi chu du trong không gian bị tấn công bởi các tia vũ trụ , ra đời các nguyên tử Al-26. Sau khi rơi xuống trái đất , tấm chắn khí quyển đã trông coi cho các phần tử này không ra đời thêm Al-26 , và sự phân rã của nó có thể sử dụng để xác định tuổi trên trái đất của các thiên thạch này. Các Học hỏi về thiên thạch cho thấy Al-26 là tự do tương đối phổ quát trong thời kì hình thành hệ hành tinh của chúng ta. Có xác xuất là năng lượng được giải phóng bởi sự phân rã Al-26 có liên quan đến sự nấu chảy lại và sự sai dị của một số tiểu hành tinh sau khi chúng hình thành cách đây 4 , 6 tỷ năm.
báo trước
Nhôm là một trong ít các nguyên tố phổ biến nhất mà không có công năng có ích nào cho các thân hình sống , nhưng có một số người bị dị ứng với nó — họ bị các chứng viêm da do tiếp kiến với các dạng khác nhau của nhôm: các vết ngứa do sử dụng các chất làm se da hay hút mồ hôi ( phấn rôm ) , các rối loạn tiêu hóa và giảm hay mất khả năng hấp thụ các chất dinh dưỡng từ thức ăn nấu trong các nồi nhôm , nôn ọe hay các triệu chứng khác của ngộ độc nhôm do ăn ( uống ) các sản phẩm như Kaopectate® ( thuốc chống ỉa chảy ) , Amphojel® và Maalox® ( thuốc chống chua ). Đối với những người khác , nhôm không bị coi là chất độc như các kim loại nặng , nhưng có ám hiệu của ngộ độc nếu nó được hấp thụ nhiều , mặc dù việc sử dụng các đồ Bếp bằng nhôm ( phổ biến do khả năng chống bào mòn và dẫn nhiệt tốt ) nói chung chưa cho thấy dẫn đến tình trạng ngộ độc nhôm. Việc tiêu thụ qua nhiều các thuốc chống chua chứa các hợp chất nhôm và việc sử dụng quá nhiều các chất hút mồ hôi chứa nhôm có lẽ là nguồn duy nhất ra đời sự ngộ độc nhôm. Địa ngục ta cho rằng nhôm liên đái đến bệnh Alzheimer , mặc dù các Học hỏi gần đây đã bị bác bỏ.
Cần cẩn trọng để không cho nhôm tiếp kiến với một số chất hóa học nào đó có thể bào mòn nó rất nhanh. Nếu , chỉ một lượng nhỏ thuốc độc tiếp kiến với bề mặt của miếng nhôm có xác xuất phá hủy lớp ôxít nhôm canh gác thường nhật có trên bề mặt các tấm nhôm. Trong vài giờ , thậm chí cả một một cái xà có cấu trúc nặng nề có xác xuất bị làm yếu đi một cách rõ rệt. Vì lý do này , các loại nhiệt kế thạch tín không được phép trong nhiều trường bay và hãng cơ giới , vì nhôm là thành phần nông dân kiến trúc căn bản của các máy bay.
Hóa học
trạng thái ôxi hóa 1
§ AlH được điều chế khi nhôm bị nung nóng ở nhiệt độ 1500 °C trong hiđrô .
§ Al 2 O được pha chế bằng cách nung nóng ôxít thường nhật , Al 2 O 3 , với silic ở nhiệt độ 1800 °C trong chân không .
§ Al 2 S được pha chế bằng cách nung nóng Al 2 S 3 với vỏ nhôm ở nhiệt độ 1300 °C trong chân không. Nó mau chóng bị chuyển thành các chất ban sơ. Selenua được điều chế tương tự.
§ AlF , AlCl và AlBr tồn tại trong pha khí khi ba halua được nung nóng cùng với nhôm.
thể trạng ôxi hóa 2
§ Subôxít nhôm , AlO có thể được tồn tại khi bột nhôm cháy trong ôxy .
thể trạng ôxi hóa 3
§ quy tắc Fajans chỉ ra rằng cation hóa trị ba Al 3+ là không được mong chờ tìm thấy trong các muối khan hay trong các hợp chất nhị phân như Al 2 O 3 . Hiđrôxít nhôm là một bazơ yếu và muối nhôm của các axít yếu , chả hạn như cacbonat , chẳng thể tạo ra. Muối của các axít mạnh , chẳng hạn như nitrat , là yên ổn và hòa tan trong nước , tạo thành các hiđrat với ít ra sáu phân tử nước kết tinh .
§ Hiđrua nhôm , ( AlH 3 ) n , có thể làm ra từ trimêthyl nhôm và hiđrô dư dả. Nó cháy kèm nổ trong không khí. Nó cũng có khả năng được điều chế bằng phản ứng của clorua nhôm trên hiđrua liti trong dung dịch ête , nhưng chẳng thể Cô đơn thành dạng tự do từ dung dịch.
§ Cacbua nhôm , Al 4 C 3 được làm ra bằng cách nung nóng hỗn tạp hai nguyên tố trên 1.000 °C. Các tinh thể màu vàng nhạt có kiến trúc lưới không đơn giản , và đặc tính với nước hay axít loãng tạo ra mêtan . Axêtylua , Al 2 ( C 2 ) 3 , được phối chế bằng cách cho axêtylen đi qua nhôm nóng.
§ Nitrua nhôm , AlN , có thể được sản xuất từ các nguyên tố ở nhiệt độ 800 °C. Nó bị thủy phân bởi nước tạo ra amôniắc và hiđrôxít nhôm .
§ Phốtphua nhôm , AlP , được sản xuất na ná , và bị thủy phân thành phốtphin ( PH 3 ).
§ Ôxít nhôm , Al 2 O 3 , tìm thấy trong thiên nhiên như là corunđum , và có thể phối chế bằng cách đốt nóng nhôm với ôxy hay nung nóng hiđrôxít , nitrat hoặc sulfat. Như là một loại đá quý , độ cứng của nó chỉ thua có kim cương , nitrua bo và cacborunđum . Nó Hầu như không hòa tan trong nước.
§ Hiđrôxít nhôm có thể được điều chế như là một chất kết tủa dạng gelatin bằng cách cho thêm amôniắc vào trong dung dịch của các muối nhôm. Nó là lưỡng tính , vừa là bazơ yếu vừa là axít yếu , có xác xuất tạo ra các muối aluminat với kim khí kiềm . Nó tồn tại trong các dạng tinh thể khác nhau.
§ Sulfua nhôm , Al 2 S 3 , có xác xuất phối chế bằng cách cho sulfua hiđrô đi qua bột nhôm. Nó là một chất đa hình.
§ Florua nhôm , AlF 3 , có thể phối chế bằng cách cho hai nguyên tố hiệu quả với nhau hay cho hiđrôxít nhôm hiệu quả với HF. Nó gây nên phân tử lớn , bay hơi không qua pha nóng chảy ở nhiệt độ 1.291 °C ( thăng hoa ). Nó là một chất rất trơ. Các trihalua khác là các chất dime , có cấu trúc cầu nối.
§ Các hợp chất hữu cơ của nhôm có công thức chung AlR 3 tồn tại và nếu không phải là các phân tử lớn , thì là các chất dime hay trime . Chúng được sử dụng trong tổng hợp chất hữu cơ , ví dụ trimêtyl nhôm .
§ Các chất alumino-hyđrua của phần nhiều các nguyên tố có thể tích điện dương đã được biết , trong đó có giá trị nhất là hiđrua nhôm liti , Li[AlH 4 ]. Khi bị đốt nóng , nó phân hủy thành nhôm , hiđrô và hiđrua liti , nó bị thủy phân trong nước. Nó có nhiều áp dụng trong hóa hữu cơ. Các alumino-halua [AlR 4 ] có cấu trúc tương tự.
lh 0937 655 551 - 0983 994 326
gia công nhôm thanh theo khuân mẫu không hạn chế số lượng (http://www.nhomqth.com/)
================================================== ==================================================
Nhôm ( tiếng Latinh : alumen , alum ) là tên một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn nguyên tố có ký hiệu Al và số nguyên tử bằng 13. Trò múa làm hề tử khối bằng 27 đvC. Khối lượng riêng là 2 , 7 g/cm 3 . Nhiệt độ nóng chảy là 660 o C. Nhôm là nguyên tố phổ thông thứ 3 ( sau ôxy và silic ) , và là kim loại phổ biến nhất trong vỏ quả đất. Nhôm chiếm khoảng 8% khối lớp rắn của trái đất. Kim khí nhôm hiếm phản ứng hóa học mạnh với các mẫu quặng và có mặt hạn chế trong các môi trường khử cực mạnh. Tuy vậy , nó vẫn được tìm thấy ở dạng hợp chất trong hơn 270 loại khoáng vật khác nhau. [4] Quặng chính chứa nhôm là bô xít .
Nhôm có điểm đáng chú ý của một kim loại có tỷ trọng thấp và có khả năng chống ăn mòn cảnh tượng thụ động. Các thành phần kiến trúc được làm từ nhôm và hợp kim của nó là rất quan yếu cho ngành Công lao thủy lợi vũ trụ và rất quan yếu trong các chuye khác của liên lạc chuyên chở và vật liệu kiến trúc. Các hợp chất bổ ích nhất của nhôm là các ôxít và sunfat.
mặc dầu nó có mặt phổ quát trong môi trường nhưng các muối nhôm không được bất kỳ dạng sống nào sử dụng. Với sự phổ biến của nó , nhôm được dung nạp tốt bởi cây cỏ và động vật. [5]
Từ "nhôm" trong tiếng Việt có nguồn gốc từ aluminium trong tiếng Pháp .
thuộc tính [ sửa sửa mã nguồn ] Nhôm là một kim khí mềm , nhẹ với màu xám bạc ánh kim mờ , vì có một lớp mỏng ôxi hóa tạo thành rất nhanh khi nó để trần ngoài không khí . Tỷ trọng riêng của nhôm chỉ khoảng một phần ba sắt hay đồng ; nó rất mềm ( chỉ sau vàng ) , dễ uốn ( đứng thứ sáu ) và dễ dàng gia công trên máy móc hay đúc; nó có khả năng chống ăn mòn và vững bền do lớp ôxít canh gác. Nó cũng không nhiễm từ và không cháy khi để ở ngoài khí trời ở điều kiện bình thường .
Sức bền của nhôm thuần khiết là 7–11 MPa , trong khi hợp kim nhôm có độ bền từ 200 MPa đến 600 MPa. [6] Các nguyên tử nhôm sắp đặt thành một kiến trúc lập phương tâm mặt ( fcc ). Nhôm có năng lượng xếp lỗi vào khoảng 200 mJ/m 2 . [7]
Nhôm biến hóa với nước tạo ra hydro và năng lượng:
2 Al + 6 H 2 O → 2 Al( OH ) 3 + 3 H 2
thuộc tính này có khả năng dùng để sản xuất hydro , tuy nhiên phản ứng này mau chóng dừng lại vì tạo lớp kết tủa keo lắng xuống , ngăn cản biến hóa xảy ra. [8]
Khi ngâm trong dung dịch kiềm đặc , lớp màng này sẽ bị phá hủy theo biến hóa
Al( OH ) 3 +NaOH → NaAlO 2 + 2H 2 O
tiếp chuyện Al lại hiệu quả với nước như đặc tính trên. Quá trình này lại diễn ra đến khi Al không bị hòa tan hết.
Lịch sử [ sửa sửa mã nguồn ] Tham chiếu hàng đầu tới nhôm ( mặc dầu chẳng thể chứng minh ) là trong Naturalis Historia của Gaius Plinius Secundus ( tức Pliny anh ):
Có một ngày một người thợ vàng ở Roma được phép cho hoàng đế Tiberius xem một chiếc đĩa ăn làm từ một kim khí mới. Chiếc đĩa rất nhẹ và có màu sáng như bạc . Địa ngục thợ vàng nói với hoàng đế rằng ông đã sản xuất kim khí từ đất sét thô. Ông cũng cam đoan với hoàng đế rằng chỉ có ông ta và chúa Trời biết cách sản xuất kim loại này từ đất sét. Hoàng đế rất ưa , và như một chuyên gia về tài chính ông đã quan hoài tới nó. Tuy nhiên ông nhận ngay ra là mọi Chia của cải vàng , bạc của ông sẽ mất giá trị giả dụ người dân bắt đầu sản xuất kim loại màu sáng này từ đất sét. Bởi thế , thay vì cảm ơn người thợ vàng , ông đã ra lệnh chặt đầu ông ta . [9] [10]
Những người Hy Lạp và La Mã cổ đại đã sử dụng các loại muối của kim loại này như là thuốc cẩn màu ( nhuộm ) và như chất làm se vết thương , và phèn chua vẫn được sử dụng như chất làm se. Năm 1761 Guyton de Morveau đề xuất cách gọi gốc của phèn chua là alumine . Năm 1808 , Humphry Davy chính xác được gốc kim loại của phèn chua ( alum ) , mà theo đó ông Mệnh danh cho nhôm là aluminium .
tên tuổi của Friedrich Wöhler nhìn chung được gắn liền với việc phân lập nhôm vào năm 1827 . Tuy nhiên , kim khí này đã được làm ra lần đầu tiên trong dạng không nguyên chất hai năm trước bởi nhà vật lý và hóa học Đan Mạch Hans Christian Ørsted .
Nhôm được chọn làm chóp cho đài kỷ niệm Washington vào thời kì khi một aoxơ ( 28 , 35 g ) quý báu bằng hai lần ngày lương của người lao động. [11]
Charles Martin Hall nhận được bằng sáng chế ( số 400655 ) năm 1886 , về quy trình điện phân để sản xuất nhôm. Henri Saint-Claire Deville ( Pháp ) đã hoàn thiện thủ pháp của Wöhler ( năm 1846 ) và biểu lộ nó trong cuốn sách năm 1859 với hai cải tiến trong quy trình là thay thế kali thành natri và hai thay vì một ( chlorure )??. Phát minh của quy trình Hall-Héroult năm 1886 đã làm cho việc sản xuất nhôm từ khoáng vật trở thành không đắt tiền và bây giờ nó được sử dụng thông đạt các ngả trên thế giới.
Nước Đức trở nên nhà sản xuất nhôm lớn nhất thế giới sau khi Adolf Hitler lên nắm quyền. Tuy nhiên , năm 1942 , những nhà máy thủy điện mới như Grand Coulee Dam đã cho phép Mỹ những thứ mà nước Đức quốc xã chẳng thể được tràn đầy hy vọng cạnh tranh: khả năng sản xuất đủ nhôm để có xác xuất làm ra 60.000 máy bay chiến đấu trong bốn năm. [12] .
áp dụng [ sửa sửa mã nguồn ] Tính theo cả số lượng lẫn giá trị , việc sử dụng nhôm vượt tất thảy các kim khí khác , trừ sắt [13] , và nó đóng vai trò quan yếu trong nền kinh tế thế giới. Nhôm nguyên chất có sức chịu kéo thấp , nhưng tạo ra các hợp kim với nhiều nguyên tố như đồng , kẽm , magiê , mangan và silic [14] . Khi được gia công cơ-nhiệt , các hợp kim nhôm này có các tính chất cơ học tăng lên đáng kể.
Các hợp kim nhôm làm nên một thành phần quan trọng trong các phi cơ và tên lửa do tỷ lệ sức bền cao trên cùng khối lượng.
Khi nhôm được bay hơi trong chân không , nó tạo ra lớp bao phủ phản xạ cả ánh sáng và bức xạ nhiệt . Các lớp bao phủ này gây nên một lớp mỏng của ôxít nhôm gác canh , nó không bị hỏng hóc như các lớp bạc bao phủ vẫn hay bị. Trên thực tiễn , Hầu như toàn bộ các loại gương đương đại được sản xuất sử dụng lớp v bằng nhôm trên mặt sau của thủy tinh . Các gương của kính thiên văn cũng được phủ một lớp mỏng nhôm , nhưng là ở mặt trước để tránh các phản xạ bên trong mặc dầu điều này làm cho bề mặt nhạy cảm hơn với các tổn thương.
Các loại vỏ phủ nhôm thỉnh thoảng được dùng thay vỏ phủ vàng để phủ vệ tinh nhân tạo hay khinh khí cầu để tăng nhiệt độ cho chúng , nhờ vào phản ứng tiếp thụ bức xạ điện từ của mặt trời tốt , mà bức xạ hồng ngoại vào ban đêm thấp.
Hợp kim nhôm , nhẹ và bền , được dùng để chế tạo các chi tiết của công cụ chuyên chở ( ôtô , tàu bay , xe tải , toa xe tàu hỏa , tàu biển , v.v. )
Đóng gói ( can , giấy gói , v.v )
xử lý nước
Xây dựng ( cửa sổ , cửa , ván , v.v; tuy nhiên nó đã đánh mất vai trò chính dùng làm dây dẫn phần sau chót của các mạng điện , trực tiếp đến người sử dụng. [15] )
Các hàng tiêu dùng có độ bền cao ( trang thiết bị , đồ nấu bếp , v.v )
Các đường dây tải điện ( mặc dù độ dẫn điện của nó chỉ bằng 60% của đồng , nó nhẹ hơn nếu tính theo khối lượng và rẻ tiền hơn [16]
chế tác máy móc.
mặc dầu tự bản thân nó là không nhiễm từ , nhôm được sử dụng trong thép MKM và các nam châm Alnico .
Nhôm siêu tinh khiết ( SPA ) chứa 99 , 980%-99 , 999% nhôm được sử dụng trong công nghiệp điện tử và làm ra đĩa CD .
Nhôm dạng bột thường nhật được sử dụng để tạo màu bạc trong sơn. Các bông nhôm có thể cho thêm vào trong sơn lót , chính yếu là trong xử lí gỗ — khi khô đi , các bông nhôm sẽ tạo ra một lớp kháng nước rất tốt.
Nhôm dương cực hóa là ổn định hơn đối với sự ôxi hóa , và nó được sử dụng trong các khu vực khác nhau của xây dựng.
phần lớn các bộ tản nhiệt cho CPU của các máy tính đương đại được sản xuất từ nhôm vì nó dễ dàng trong làm ra và độ dẫn nhiệt cao.
Ôxít nhôm , alumina , được tìm thấy trong thiên nhiên dưới dạng corunđum , emery , ruby và saphia và được sử dụng trong sản xuất thủy tinh. Ruby và saphia tổng hợp được sử dụng trong các ống tia laser để làm ra ánh sáng có khả năng giao thoa .
Sự ôxi hóa nhôm tỏa ra nhiều nhiệt , nó sử dụng để làm vật liệu rắn cho hoả tiễn , nhiệt nhôm và các thành phần của pháo bông .
phản ứng nhiệt nhôm dùng để phối chế các kim loại có nhiệt độ nóng chảy cao ( như crôm Cr Vonfarm W... )
Sự phổ quát , phối chế [ sửa sửa mã nguồn ] Đồng vị bền của nhôm được tạo ra khi hydro hợp hạch với magiê hoặc trong các sao lớn hoặc trong các vụ nổ siêu tân tinh . [17]
mặc dù nhôm là nguyên tố phổ biến trong vỏ trái đất ( 8 , 3% theo khối lượng ) [18] , nó lại hiếm trong dạng tự do và đã từng được cho là kim khí quý quý báu hơn vàng ( Người ta nói rằng Napoleon III của Pháp có các bộ đồ ăn bằng nhôm xơ cua cho những người khách quý nhất của ông. Những người khách khác chỉ có bộ đồ ăn bằng vàng ). Vì thế nhôm là kim khí tự do tương đối mới trong Công lao và được làm ra với số lượng công nghiệp chỉ khoảng trên 100 năm.
Nhôm khi mới được phát hiện là cực kỳ khó Chia ra khỏi các loại đá có chứa nó. Vì tất nhôm của trái đất tồn tại dưới dạng các hợp chất nên nó là kim loại khó nhận được nhất. Lý do là nhôm bị ôxi hóa rất nhanh và ôxít nhôm là một hợp chất cực kỳ vững bền , không giống như gỉ sắt , nó không bị bong ra.
Sự tái chế nhôm từ các phế thải đã trở thành một trong những thành phần quan yếu của công nghiệp luyện nhôm . Việc tái chế giản đơn là nấu chảy kim loại , nó rẻ hơn dồi dào so với sản xuất từ quặng. Việc tinh chế nhôm tiêu hao nhiều điện năng; việc tái chế chỉ tiêu hao khoảng 5% năng lượng để làm ra ra nó trên cùng một khối lượng sản phẩm. Mặc dù cho đến đầu thập niên 1900 , việc tái chế nhôm không còn là một lĩnh vực mới. Tuy nhiên , nó là khu vực hoạt động trầm lắng cho đến tận những năm cuối thập niên 1960 khi sự Phát nổ của việc sử dụng nhôm để làm vỏ của các loại đồ uống , kể từ đó việc tái chế nhôm được đưa vào trong tầm để ý của cộng đồng. Các nguồn tái chế nhôm bao gồm ô tô cũ , cửa và cửa sổ nhôm cũ , các thiết bị Nhà ở cũ , contenơ và các sản phẩm khác.
Nhôm là một kim loại hoạt động và rất khó phân lập nó ra từ quặng , ôxít nhôm ( Al 2 O 3 ). Việc khử trực tiếp , nếu với cacbon , là không kinh tế vì ôxít nhôm có điểm nóng chảy cao ( khoảng 2.000 °C ). Bởi thế , nó được tách ra bằng cách điện phân – ôxít nhôm được hòa tan trong cryôlit nóng chảy và sau đó bị khử bởi dòng điện thành nhôm kim loại. Theo công nghệ này , nhiệt độ nóng chảy của hỗn hợp chỉ còn khoảng 950-980 °C. Cryôlit nguyên thủy được tìm thấy như một khoáng vật ở Greenland , nhưng sau đó được thay thế bằng cryôlit tổng hợp. Cryôlit là hỗn tạp của các florua nhôm , natri và canxi ( Na 3 AlF 6 ). Ôxít nhôm trong dạng bột màu trắng thu được từ quặng bôxít tinh chế , quặng này có vẻ đan vì chứa khoảng 30-40% ôxít sắt. Nó được tinh chế theo công nghệ Bayer . Trước khi có công nghệ này , công nghệ được sử dụng là công nghệ Deville .
Công nghệ điện phân thay thế cho công nghệ Wöhler , là công nghệ khử clorua nhôm khan với kali .
Các điện cực trong điện phân ôxít nhôm làm từ cacbon . Khi quặng bị nóng chảy , các ion của nó chuyển động tự do. Đặc tính tại catốt mang điện âm là:
Al 3+ + 3e - → Al
Ở đây các ion nhôm bị biến đổi ( nhận thêm điện tử ). Nhôm kim khí sau đó chìm xuống và được đưa ra khỏi lò điện phân.
Tại cực dương ( anode ) ôxy dạng khí được tạo thành:
2O 2- → O 2 + 4e -
Cực dương cacbon bị ôxi hóa bởi ôxy . Cực dương bị hao mòn dần và phải được thay thế thường xuyên , do nó bị tiêu hao do phản ứng:
O 2 + C → CO 2
trái lại với anốt , các catốt Hầu như không bị mất mát trong quá trình điện phân do không có ôxy ở gần nó. Catốt cacbon được bảo vệ bởi nhôm lỏng trong lò. Các catốt bị ăn mòn cốt yếu là do các đặc tính điện hóa. Sau 5-10 năm , nước phụ thuộc vào dòng điện sử dụng trong quá trình điện phân , các lò điện phân cần phải sửa sang tất do các catốt đã bị ăn mòn hoàn toàn.
Điện phân nhôm bằng công nghệ Hall-Héroult hao hụt nhiều điện lực , nhưng các công nghệ khác xoành xoạch có khuyết điểm về mặt kinh tế hay môi trường hơn công nghệ này. Chương trình mất mát năng lượng phổ quát là khoảng 14 , 5-15 , 5 kWh/kg nhôm được làm ra. Các lò đương đại có mức tiêu thụ điện lực khoảng 12 , 8 kWh/kg. Dòng điện để thực hiện công việc điện phân này đối với các công nghệ cũ là 100.000-200.000 A . Các lò bây giờ làm việc với cường độ dòng điện khoảng 350.000 A. Các lò thí nghiệm làm việc với dòng điện khoảng 500.000 A.
Năng lượng điện chiếm khoảng 20-40% trong giá thành của làm ra nhôm , phụ thuộc vào nơi đặt lò nhôm. Các lò luyện nhôm có khuynh hướng được đặt ở những khu vực mà nguồn cung cấp điện dồi dào với giá điện rẻ , như Nam Phi , đảo miền nam New Zealand , Úc , Trung Quốc , Trung Đông , Nga và Québec ở Canada .
Trung Quốc hiện là nhà sản xuất nhôm lớn nhất thế giới ( năm 2004 ).
Đồng vị [ sửa sửa mã nguồn ] Nhôm có chín đồng vị , số Z của chúng từ 23 đến 30. Chỉ có Al-27 ( đồng vị yên ổn ) và Al-26 ( đồng vị phóng xạ , t 1/2 = 7 , 2 × 10 5 năm ) tìm thấy trong thiên nhiên , tuy nhiên Al-27 có sự phổ biến trong tự nhiên là 100%. Al-26 được sản xuất từ agon trong khí quyển do đụng chạm sinh ra bởi các tia vũ trụ proton . Các đồng vị của nhôm có ứng dụng thực tế trong việc tính tuổi của trầm tích dưới biển , các vết mangan , nước đóng băng , thạch anh trong đá lộ thiên , và các thiên thạch. Tỷ lệ của Al-26 trên beryli-10 được sử dụng để nghiên cứu vai trò của việc chuyển hóa , lắng đọng , lưu trữ trầm tích , thời kì cháy và sự xâm thực trong thang độ thời gian 105 đến 106 năm ( về sai số ).
Al-26 nguồn gốc vũ trụ hàng đầu được sử dụng để nghiên cứu trăng và các tinh thạch . Các thành phần nông dân của thiên thạch , sau khi thoát khỏi nguyên lai của chúng , trong lúc ngao du trong không gian bị tấn công bởi các tia vũ trụ , ra đời các nguyên tử Al-26. Sau khi rơi xuống địa cầu , tấm chắn khí quyển đã trông coi cho các phần tử này không sinh ra thêm Al-26 , và sự phân rã của nó có xác xuất sử dụng để rõ ràng tuổi trên quả đất của các tinh thạch này. Các nghiên cứu về thiên thạch cho thấy Al-26 là tự do tương đối phổ quát trong thời gian hình thành hệ hành tinh của chúng tôi. Có xác xuất là năng lượng được phóng thích bởi sự phân rã Al-26 liên đái đến sự nấu chảy lại và sự sai biệt của một số tiểu hành tinh sau khi chúng hình thành cách đây 4 , 55 tỷ năm. [19]
Cụm [ sửa sửa mã nguồn ] Trong tập san Science ngày 14 tháng 1 năm 2005 đã báo cáo rằng các cụm 13 nguyên tử nhôm ( Al 13 ) được tạo ra có thuộc tính giống như nguyên tử iốt ; và 14 nguyên tử nhôm ( Al 14 ) có thuộc tính giống như nguyên tử kim khí kiềm thổ . Các nhà Học hỏi còn liên kết 12 nguyên tử iốt với cụm Al 13 để tạo ra một lớp mới của pôlyiốtua . Sự phát kiến này được thông báo là mở ra khả năng của các đặc tính mới của bảng tuần hoàn các nguyên tố : "các nguyên tố cụm". Nhóm nghiên cứu dẫn đầu bởi Shiv N. Khanna ( Đại học Virginia Commonwealth ) và A. Welford Castleman Jr ( Đại học tiểu bang Penn ). [20]
cảnh báo [ sửa sửa mã nguồn ] Nhôm là một trong ít các nguyên tố phổ quát nhất mà không có chức năng hữu ích nào cho các cơ thể sống , nhưng có một số người bị dị ứng với nó — họ bị các chứng viêm da do tiếp kiến với các dạng khác nhau của nhôm: các vết ngứa do sử dụng các chất làm se da hay hút mồ hôi ( phấn rôm ) , các rối loạn tiêu hóa và giảm hay mất khả năng hấp thụ các chất dinh dưỡng từ thức ăn nấu trong các nồi nhôm , nôn mửa hay các triệu chứng khác của ngộ độc nhôm do ăn ( uống ) các sản phẩm như Kaopectate® ( thuốc chống đi rửa ) , Amphojel® và Maalox® ( thuốc chống chua ). Đối với những người khác , nhôm không bị coi là chất độc như các kim loại nặng , nhưng có ám hiệu của ngộ độc nếu nó được tiếp thu nhiều , mặc dầu việc sử dụng các đồ Bếp bằng nhôm ( phổ quát do khả năng chống ăn mòn và dẫn nhiệt tốt ) nói chung chưa cho thấy dẫn đến tình trạng ngộ độc nhôm. Việc tiêu thụ qua nhiều các thuốc chống chua chứa các hợp chất nhôm và việc sử dụng lan tràn thặng dư các chất hút mồ hôi chứa nhôm có lẽ là nguồn độc nhất vô nhị sinh ra sự bị trúng độc nhôm. Người ta ý là nhôm liên đới đến bệnh Alzheimer , mặc dù các Học hỏi gần đây đã bị bác bỏ.
Cần cẩn trọng để không cho nhôm tiếp kiến với một số chất hóa học nào đó có khả năng bào mòn nó rất nhanh. Giá dụ , chỉ một lượng nhỏ thuốc độc tiếp xúc với bề mặt của miếng nhôm có xác xuất phá hủy lớp ôxít nhôm canh giữ bình thường có trên bề mặt các tấm nhôm. Trong vài giờ , thậm chí cả một cái xà có kiến trúc nặng nề có khả năng bị làm yếu đi một cách rõ rệt. Vì lý do này , các loại nhiệt biểu thạch tín không được phép trong nhiều sân bay và hãng cơ giới , vì nhôm là thành phần cấu trúc căn bản của các máy bay.
kim khí Nhôm
Nhôm là tên một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn nguyên tố có ký hiệu Al và số nguyên tử bằng 13. Trò múa làm hề tử khối bằng 27 đvC. Khối lượng riêng là 2 , 7 g/cm3. Nhiệt độ nóng chảy là 660oC. Từ "nhôm" trong tiếng Việt có nguồn gốc từ aluminium trong tiếng Pháp.
thuộc tính
Nhôm là một kim khí mềm , nhẹ với màu xám bạc ánh kim mờ , vì có một lớp mỏng ôxi hóa tạo thành rất nhanh khi nó để trần ngoài không khí . Tỷ trọng riêng của nhôm chỉ khoảng một phần ba sắt hay đồng ; nó rất mềm ( chỉ sau vàng ) , dễ uốn ( đứng thứ sáu ) và dễ dàng gia công trên máy móc hay đúc; nó có khả năng chống ăn mòn và bền vững do lớp ôxít canh gác. Nó cũng không nhiễm từ và không cháy khi để ở ngoài khí trời ở hoàn cảnh bình thường .
Lịch sử
Tham chiếu đầu tiên tới nhôm ( mặc dầu không thể chứng minh ) là trong Naturalis Historia của Gaius Plinius Secundus ( tức Pliny anh ):
Có một ngày càng người thợ vàng ở Roma được phép cho hoàng đế Tiberius xem một chiếc đĩa ăn làm từ một kim loại mới. Chiếc đĩa rất nhẹ và có màu sáng như bạc . Người thợ vàng nói với hoàng đế rằng ông đã sản xuất kim khí từ đất thó thô. Ông cũng xác nhận với hoàng đế rằng chỉ có ông ta và chúa Trời biết cách làm ra kim khí này từ đất sét. Hoàng đế rất ham thích , và như một chuyên gia về tài chính ông đã quan tâm tới nó. Tuy nhiên ông nhận ngay ra là mọi Chia của cải vàng , bạc của ông sẽ mất giá trị phải như người dân bắt đầu sản xuất kim khí màu sáng này từ đất thó. Vì thế , thay vì cảm ơn người thợ vàng , ông đã ra lệnh chặt đầu ông ta .
Những người Hy Lạp và La Mã cổ đại đã sử dụng các loại muối của kim khí này như là thuốc cẩn màu ( nhuộm ) và như chất làm se vết thương , và phèn chua vẫn được sử dụng như chất làm se. Năm 1761 Guyton de Morveau dề xuất cách gọi gốc của Phèn trắng là alumine . Năm 1808 , Humphry Davy chính xác được gốc kim loại của Phèn trắng ( alum ) , mà theo đó ông đặt tên cho nhôm là aluminium .
tên tuổi của Friedrich Wöhler nói chung được gắn liền với việc phân lập nhôm vào năm 1827 . Tuy nhiên , kim loại này đã được làm ra lần đi hàng đầu trong dạng không nguyên chất hai năm trước bởi nhà vật lý và hóa học Đan Mạch Hans Christian Ørsted .
Nhôm được chọn làm chóp cho kỷ niệm Washington vào thời kì khi một aoxơ ( 28 , 35 g ) có giá trị bằng hai lần ngày lương của người lao động.
Charles Martin Hall nhận được bằng sáng chế năm 1886 , về quy trình điện phân để sản xuất nhôm. Henri Saint-Claire Deville ( Pháp ) đã hoàn thiện thủ pháp của Wöhler ( năm 1846 ) và biểu hiện nó trong cuốn sách năm 1859 với hai sửa đổi cho tiến bộ hơn trong quy trình là thay thế kali thành natri và hai thay vì một ( chlorure ). Phát minh của quy trình Hall-Héroult năm 1886 đã làm cho việc làm ra nhôm từ khoáng vật trở nên không đắt tiền và ngày nay nó được sử dụng Đường bằng phẳng trên thế giới.
Nước Đức trở thành nhà làm ra nhôm lớn nhất thế giới sau khi Adolf Hitler lên nắm quyền. Tuy nhiên , năm 1942 , những nhà máy thủy điện mới như Grand Coulee Dam đã cho phép Mỹ những thứ mà nước Đức quốc xã không thể hy vọng cạnh tranh: khả năng sản xuất đủ nhôm để có khả năng sản xuất 60.000 máy bay khu trục trong bốn năm.
vận dụng
Tính theo cả số lượng lẫn giá trị , việc sử dụng nhôm vượt tất thảy các kim loại khác , trừ sắt , và nó đóng vai trò quan yếu trong nền kinh tế thế giới. Nhôm nguyên chất có sức chịu kéo thấp , nhưng tạo ra các hợp kim với nhiều nguyên tố như đồng , kẽm , magiê , mangan và silic . Khi được gia công cơ-nhiệt , các hợp kim nhôm này có các thuộc tính cơ học tăng lên đáng kể.
§ Các hợp kim nhôm tạo thành một thành phần quan trọng trong các máy bay và tên lửa do tỷ lệ sức bền cao trên cùng khối lượng.
§ Khi nhôm được bay hơi trong chân không , nó tạo ra lớp bao phủ v cả ánh sáng và bức xạ nhiệt . Các lớp bao phủ này làm nên một lớp mỏng của ôxít nhôm bảo vệ , nó không bị hỏng hóc như các lớp bạc bao trùm vẫn hay bị. Trên thực tế , gần như toàn bộ các loại gương đương đại được sản xuất sử dụng lớp như: âm ba bằng nhôm trên mặt sau của sao thủy . Các gương của kính thiên văn cũng được phủ một lớp mỏng nhôm , nhưng là ở mặt trước để tránh các cộng chấn bên trong mặc dù điều này làm cho bề mặt nhạy cảm hơn với các tổn thương.
§ Các loại vỏ phủ nhôm đôi khi được dùng thay vỏ phủ vàng để phủ vệ tinh nhân tạo hay khinh khí cầu để tăng nhiệt độ cho chúng , nhờ vào biến hóa tiếp nhận bức xạ điện từ của mặt trời tốt , mà bức xạ hồng ngoại vào ban đêm thấp.
§ Hợp kim nhôm , nhẹ và bền , được dùng để chế tạo các chi tiết của phương tiện chuyên chở ( ôtô , máy bay , xe tải , toa xe tàu hỏa , tàu biển , v.v. )
§ Đóng gói ( can , giấy gói , v.v )
§ xử lí nước
§ Xây dựng ( cửa sổ , cửa , ván , v.v; tuy nhiên nó đã đánh mất vai trò chính dùng làm dây dẫn phần sau chót của các mạng điện , trực tiếp đến người sử dụng )
§ Các hàng tiêu dùng có độ bền cao ( trang thiết bị , đồ nấu ăn , v.v )
§ Các đường dây tải điện ( mặc dù độ dẫn điện của nó chỉ bằng 60% của đồng , nó nhẹ hơn nếu tính theo khối lượng và rẻ tiền hơn )
§ chế tạo máy móc.
§ mặc dù tự bản thân nó là không nhiễm từ , nhôm được sử dụng trong thép MKM và các từ thạch Alnico .
§ Nhôm siêu thuần khiết ( SPA ) chứa 99 , 980%-99 , 999% nhôm được sử dụng trong công nghiệp điện tử và làm ra đĩa CD .
§ Nhôm dạng bột bình thường được sử dụng để tạo màu bạc trong sơn. Các bông nhôm có xác xuất cho thêm vào trong sơn lót , cốt tử là trong xử lí gỗ - khi khô đi , các bông nhôm sẽ tạo ra một lớp kháng nước rất tốt.
§ Nhôm dương cực hóa là yên ổn hơn đối với sự ôxi hóa , và nó được sử dụng trong các khu vực khác nhau của xây dựng.
§ phần nhiều các bộ tản nhiệt cho CPU của các máy tính hiện đại được sản xuất từ nhôm vì nó dễ dàng trong làm ra và độ dẫn nhiệt cao.
§ Ôxít nhôm , alumina , được tìm thấy trong thiên nhiên dưới dạng corunđum , emery , ruby và saphia và được sử dụng trong làm ra thủy tinh. Ruby và saphia tổng hợp được sử dụng trong các ống tia laser để làm ra ánh sáng có thể giao thoa .
§ Sự ôxi hóa nhôm tỏa ra nhiều nhiệt , nó sử dụng để làm nguyên liệu rắn cho hoả tiễn , nhiệt nhôm và các thành phần của pháo hoa .
§ biến hóa nhiệt nhôm dùng để phối chế các kim loại có nhiệt độ nóng chảy cao ( như crôm Cr Vonfarm W ... )
Sự phổ thông , điều chế
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/1/11/Bauxite_h%C3%A9rault.JPG/200px-Bauxite_h%C3%A9rault.JPG
Quặng Bauxite chứa nhôm.
mặc dù nhôm là nguyên tố phổ biến trong vỏ trái đất ( 8 , 1% ) , nó lại hiếm trong dạng tự do và đã từng được cho là kim loại quý có giá trị hơn vàng ( Người ta nói rằng Napoleon III của Pháp có các bộ đồ ăn bằng nhôm xơ cua cho những người khách quý nhất của ông. Những người khách khác chỉ có bộ đồ ăn bằng vàng ). Vì thế nhôm là kim khí tự do tương đối mới trong Công lao và được sản xuất với số lượng Công lao chỉ khoảng trên 100 năm.
Nhôm khi mới được phát hiện là cực kỳ khó tách ra khỏi các loại đá có chứa nó. Vì hết thảy nhôm của trái đất tồn tại dưới dạng các hợp chất nên nó là kim khí khó nhận được nhất. Lý do là nhôm bị ôxi hóa rất nhanh và ôxít nhôm là một hợp chất cực kỳ bền vững , không giống như gỉ sắt , nó không bị bong ra.
Sự tái chế nhôm từ các phế thải đã trở thành một trong những thành phần nông dân quan yếu của Công lao luyện nhôm . Việc tái chế đơn giản là nấu chảy kim khí , nó rẻ hơn rất nhiều so với sản xuất từ quặng. Việc tinh chế nhôm tiêu hao nhiều điện năng; việc tái chế chỉ tiêu hao khoảng 5% năng lượng để làm ra ra nó trên cùng một khối lượng sản phẩm. Mặc dù cho đến đầu thập niên 1900 , việc tái chế nhôm không còn là một lĩnh vực mới. Tuy nhiên , nó là lĩnh vực hoạt động trầm lắng cho thâu những năm cuối thập niên 1960 khi sự bùng nổ của việc sử dụng nhôm để làm vỏ của các loại đồ uống , kể từ đó việc tái chế nhôm được đưa vào trong tầm để ý của cộng đồng. Các nguồn tái chế nhôm bao gồm ô tô cũ , cửa và cửa sổ nhôm cũ , các thiết bị Nhà ở cũ , contenơ và các sản phẩm khác.
Nhôm là một kim loại hoạt động và rất khó phân lập nó ra từ quặng , ôxít nhôm ( Al 2 O 3 ). Việc khử trực tiếp , giá dụ với cacbon , là không kinh tế vì ôxít nhôm có điểm nóng chảy cao ( khoảng 2.000 °C ). Vì thế , nó được tách ra bằng cách điện phân – ôxít nhôm được hòa tan trong cryôlit nóng chảy và sau thời gian ấy bị khử bởi dòng điện thành nhôm kim khí. Theo công nghệ này , nhiệt độ nóng chảy của hổ lốn chỉ còn khoảng 950-980 °C. Cryôlit bổn sơ được tìm thấy như một khoáng vật ở Greenland , nhưng sau đó được thay thế bằng cryôlit tổng hợp. Cryôlit là hổ lốn của các florua nhôm , natri và canxi ( Na 3 AlF 6 ). Ôxít nhôm trong dạng bột màu trắng thu được từ quặng bôxít tinh luyện , quặng này có vẻ son vì chứa khoảng 30-40% ôxít sắt. Nó được tinh chế theo công nghệ Bayer . Trước khi có công nghệ này , công nghệ được sử dụng là công nghệ Deville .
Công nghệ điện phân thay thế cho công nghệ Wöhler , là công nghệ khử clorua nhôm khan với kali .
Các điện cực trong điện phân ôxít nhôm làm từ cacbon . Khi quặng bị nóng chảy , các ion của nó chuyển động tự do. Phản ứng tại catốt mang điện âm là:
Al 3+ + 3e - → Al
Ở đây các ion nhôm bị chuyển biến ( nhận thêm điện tử ). Nhôm kim loại sau đó chìm xuống và được đưa ra khỏi lò điện phân.
Tại cực dương ( anode ) ôxy dạng khí được tạo thành:
2O 2- → O 2 + 4e -
Cực dương cacbon bị ôxi hóa bởi ôxy . Cực dương bị hao mòn dần và phải được thay thế thường xuyên , do nó bị mất mát do phản ứng:
O 2 + C → CO 2
trái lại với anốt , các catốt Hầu như không bị mất mát trong quá trình điện phân do không có ôxy ở gần nó. Catốt cacbon được trông coi bởi nhôm lỏng trong lò. Các catốt bị bào mòn cốt yếu là do các đặc tính điện hóa. Sau 5-10 năm , phụ thuộc vào dòng điện sử dụng trong quá trình điện phân , các lò điện phân cần phải sửa chữa tuốt do các catốt đã bị ăn mòn hoàn toàn.
Điện phân nhôm bằng công nghệ Hall-Héroult tiêu hao nhiều điện năng , nhưng các công nghệ khác luôn luôn có có lỗi về mặt kinh tế hay môi trường hơn công nghệ này. Các quy định tiêu hao năng lượng phổ quát là khoảng 14 , 5-15 , 5 kWh/kg nhôm được sản xuất. Các lò đương đại có mức tiêu thụ điện lực khoảng 12 , 8 kWh/kg. Dòng điện để thực hiện nghề nghiệp điện phân này đối với các công nghệ cũ là 100.000-200.000 A . Các lò hiện tại làm việc với cường độ dòng điện khoảng 350.000 A. Các lò thí nghiệm làm việc với dòng điện khoảng 500.000 A.
Năng lượng điện chiếm khoảng 20-40% trong giá thành của làm ra nhôm , nước phụ thuộc vào nơi đặt lò nhôm. Các lò luyện nhôm có khuynh hướng được đặt ở những khu vực ấn độ dương mà nguồn cung cấp điện dồi dào với giá điện rẻ , như Nam Phi , đảo miền nam New Zealand , Úc , Trung Quốc , Trung Đông , Nga và Québec ở Canada .
Trung Quốc hiện là nhà làm ra nhôm lớn nhất thế giới ( năm 2004 ).
Đồng vị
Nhôm có chín đồng vị , số Z của chúng từ 23 đến 30. Chỉ có Al-27 ( đồng vị ổn định ) và Al-26 ( đồng vị phóng xạ , t 1/2 = 7 , 2 × 10 5 năm ) tìm thấy trong tự nhiên , tuy nhiên Al-27 có sự phổ thông trong thiên nhiên là 100%. Al-26 được sản xuất từ agon trong khí quyển do đụng chạm sinh ra bởi các tia vũ trụ proton . Các đồng vị của nhôm có áp dụng thực tế trong việc tính tuổi của trầm tích dưới biển , các vết mangan , nước đóng băng , thạch anh trong đá lộ thiên , và các tinh thạch. Tỷ lệ của Al-26 trên beryli-10 được sử dụng để nghiên cứu vai trò của việc chuyển hóa , lắng đọng , lưu trữ trầm tích , thời kì cháy và sự xâm thực trong thang độ thời kì 105 đến 106 năm ( về sai số ).
Al-26 nguyên lai vũ trụ hàng đầu được sử dụng để nghiên cứu trăng và các tinh thạch . Các thành phần nông dân của tinh thạch , sau khi thoát khỏi nguyên lai của chúng , trong khi chu du trong không gian bị tấn công bởi các tia vũ trụ , ra đời các nguyên tử Al-26. Sau khi rơi xuống trái đất , tấm chắn khí quyển đã trông coi cho các phần tử này không ra đời thêm Al-26 , và sự phân rã của nó có thể sử dụng để xác định tuổi trên trái đất của các thiên thạch này. Các Học hỏi về thiên thạch cho thấy Al-26 là tự do tương đối phổ quát trong thời kì hình thành hệ hành tinh của chúng ta. Có xác xuất là năng lượng được giải phóng bởi sự phân rã Al-26 có liên quan đến sự nấu chảy lại và sự sai dị của một số tiểu hành tinh sau khi chúng hình thành cách đây 4 , 6 tỷ năm.
báo trước
Nhôm là một trong ít các nguyên tố phổ biến nhất mà không có công năng có ích nào cho các thân hình sống , nhưng có một số người bị dị ứng với nó — họ bị các chứng viêm da do tiếp kiến với các dạng khác nhau của nhôm: các vết ngứa do sử dụng các chất làm se da hay hút mồ hôi ( phấn rôm ) , các rối loạn tiêu hóa và giảm hay mất khả năng hấp thụ các chất dinh dưỡng từ thức ăn nấu trong các nồi nhôm , nôn ọe hay các triệu chứng khác của ngộ độc nhôm do ăn ( uống ) các sản phẩm như Kaopectate® ( thuốc chống ỉa chảy ) , Amphojel® và Maalox® ( thuốc chống chua ). Đối với những người khác , nhôm không bị coi là chất độc như các kim loại nặng , nhưng có ám hiệu của ngộ độc nếu nó được hấp thụ nhiều , mặc dù việc sử dụng các đồ Bếp bằng nhôm ( phổ biến do khả năng chống bào mòn và dẫn nhiệt tốt ) nói chung chưa cho thấy dẫn đến tình trạng ngộ độc nhôm. Việc tiêu thụ qua nhiều các thuốc chống chua chứa các hợp chất nhôm và việc sử dụng quá nhiều các chất hút mồ hôi chứa nhôm có lẽ là nguồn duy nhất ra đời sự ngộ độc nhôm. Địa ngục ta cho rằng nhôm liên đái đến bệnh Alzheimer , mặc dù các Học hỏi gần đây đã bị bác bỏ.
Cần cẩn trọng để không cho nhôm tiếp kiến với một số chất hóa học nào đó có thể bào mòn nó rất nhanh. Nếu , chỉ một lượng nhỏ thuốc độc tiếp kiến với bề mặt của miếng nhôm có xác xuất phá hủy lớp ôxít nhôm canh gác thường nhật có trên bề mặt các tấm nhôm. Trong vài giờ , thậm chí cả một một cái xà có cấu trúc nặng nề có xác xuất bị làm yếu đi một cách rõ rệt. Vì lý do này , các loại nhiệt kế thạch tín không được phép trong nhiều trường bay và hãng cơ giới , vì nhôm là thành phần nông dân kiến trúc căn bản của các máy bay.
Hóa học
trạng thái ôxi hóa 1
§ AlH được điều chế khi nhôm bị nung nóng ở nhiệt độ 1500 °C trong hiđrô .
§ Al 2 O được pha chế bằng cách nung nóng ôxít thường nhật , Al 2 O 3 , với silic ở nhiệt độ 1800 °C trong chân không .
§ Al 2 S được pha chế bằng cách nung nóng Al 2 S 3 với vỏ nhôm ở nhiệt độ 1300 °C trong chân không. Nó mau chóng bị chuyển thành các chất ban sơ. Selenua được điều chế tương tự.
§ AlF , AlCl và AlBr tồn tại trong pha khí khi ba halua được nung nóng cùng với nhôm.
thể trạng ôxi hóa 2
§ Subôxít nhôm , AlO có thể được tồn tại khi bột nhôm cháy trong ôxy .
thể trạng ôxi hóa 3
§ quy tắc Fajans chỉ ra rằng cation hóa trị ba Al 3+ là không được mong chờ tìm thấy trong các muối khan hay trong các hợp chất nhị phân như Al 2 O 3 . Hiđrôxít nhôm là một bazơ yếu và muối nhôm của các axít yếu , chả hạn như cacbonat , chẳng thể tạo ra. Muối của các axít mạnh , chẳng hạn như nitrat , là yên ổn và hòa tan trong nước , tạo thành các hiđrat với ít ra sáu phân tử nước kết tinh .
§ Hiđrua nhôm , ( AlH 3 ) n , có thể làm ra từ trimêthyl nhôm và hiđrô dư dả. Nó cháy kèm nổ trong không khí. Nó cũng có khả năng được điều chế bằng phản ứng của clorua nhôm trên hiđrua liti trong dung dịch ête , nhưng chẳng thể Cô đơn thành dạng tự do từ dung dịch.
§ Cacbua nhôm , Al 4 C 3 được làm ra bằng cách nung nóng hỗn tạp hai nguyên tố trên 1.000 °C. Các tinh thể màu vàng nhạt có kiến trúc lưới không đơn giản , và đặc tính với nước hay axít loãng tạo ra mêtan . Axêtylua , Al 2 ( C 2 ) 3 , được phối chế bằng cách cho axêtylen đi qua nhôm nóng.
§ Nitrua nhôm , AlN , có thể được sản xuất từ các nguyên tố ở nhiệt độ 800 °C. Nó bị thủy phân bởi nước tạo ra amôniắc và hiđrôxít nhôm .
§ Phốtphua nhôm , AlP , được sản xuất na ná , và bị thủy phân thành phốtphin ( PH 3 ).
§ Ôxít nhôm , Al 2 O 3 , tìm thấy trong thiên nhiên như là corunđum , và có thể phối chế bằng cách đốt nóng nhôm với ôxy hay nung nóng hiđrôxít , nitrat hoặc sulfat. Như là một loại đá quý , độ cứng của nó chỉ thua có kim cương , nitrua bo và cacborunđum . Nó Hầu như không hòa tan trong nước.
§ Hiđrôxít nhôm có thể được điều chế như là một chất kết tủa dạng gelatin bằng cách cho thêm amôniắc vào trong dung dịch của các muối nhôm. Nó là lưỡng tính , vừa là bazơ yếu vừa là axít yếu , có xác xuất tạo ra các muối aluminat với kim khí kiềm . Nó tồn tại trong các dạng tinh thể khác nhau.
§ Sulfua nhôm , Al 2 S 3 , có xác xuất phối chế bằng cách cho sulfua hiđrô đi qua bột nhôm. Nó là một chất đa hình.
§ Florua nhôm , AlF 3 , có thể phối chế bằng cách cho hai nguyên tố hiệu quả với nhau hay cho hiđrôxít nhôm hiệu quả với HF. Nó gây nên phân tử lớn , bay hơi không qua pha nóng chảy ở nhiệt độ 1.291 °C ( thăng hoa ). Nó là một chất rất trơ. Các trihalua khác là các chất dime , có cấu trúc cầu nối.
§ Các hợp chất hữu cơ của nhôm có công thức chung AlR 3 tồn tại và nếu không phải là các phân tử lớn , thì là các chất dime hay trime . Chúng được sử dụng trong tổng hợp chất hữu cơ , ví dụ trimêtyl nhôm .
§ Các chất alumino-hyđrua của phần nhiều các nguyên tố có thể tích điện dương đã được biết , trong đó có giá trị nhất là hiđrua nhôm liti , Li[AlH 4 ]. Khi bị đốt nóng , nó phân hủy thành nhôm , hiđrô và hiđrua liti , nó bị thủy phân trong nước. Nó có nhiều áp dụng trong hóa hữu cơ. Các alumino-halua [AlR 4 ] có cấu trúc tương tự.